Sa sút trí tuệ do thể Lewy
Bệnh Alzheimer là nguyên nhân chính của chứng sa sút trí tuệ, nó chiếm khoảng 50 — 60% các trường hợp bệnh. Cho tới gần đây, chứng sa sút trí tuệ do nguyên nhân mạch máu hay còn gọi là sa sút trí tuệ đa nhồi máu được cho là nguyên nhân thứ hai của sa sút trí tuệ. Nó có thể xảy ra đơn độc hoặc phối hợp với bệnh Alzheimer. Trong những nghiên cứu mổ tử thi khác nhau trên toàn thế giới, loại bệnh này đều được gọi là sa sút trí tuệ do thể Lewy (Dementia with Lewy bodies — DLB), chiếm khoảng lõ – 25% các trường hợp bệnh. Đây là bệnh có tổn thương thực thể rõ ràng, có thể nghiên cứu được qua việc khám nghiệm tử thi.
Cũng như đối với bệnh Alzheimer, không có test đặc hiệu để chẩn đoán sa sút trí tuệ do thể Lewy. Để chẩn đoán xác định, phải khám nghiệm các vùng khác nhau của não (thường làm sau khi bệnh nhân tử vong). Và người ta đã xác định rằng nguyên nhân gây bệnh là tại các tế bào não. Những theo dõi trong vòng 70 năm cho thấy chứng sa sút trí tuệ do thể Lewy là do các thoái hóa khác trong não, bệnh Parkinson. Mặc dù bệnh sa sút trí tuệ do thể Lewy với bệnh Parkinson đều kéo theo sự tăng lên của thể Lewy, nhưng sa sút trí tuệ do thể Lewy xảy ra ở cả cuống não và vùng vỏ của bán cầu đại não. Trong khi đó đối với bệnh Parkinson, thể Lewy chỉ tăng lên ở cuống não.
Hơn nữa, bệnh học của chứng bệnh này cũng giống bệnh Parkinson. Sa sút trí tuệ do thể Lewy cũng thường kết hợp với những thay đổi bệnh lý có đặc điểm như bệnh Alzheimer. Trong hai dấu hiệu chính để chẩn đoán xác định bệnh Alzheimer là mảng tinh bột và đám rối thần kinh thì dâu hiệu mảng tinh bột cũng thường xuất hiện ở những bệnh nhân sa sút trí tuệ do thể Lewy nhưng lại có rất ít đám rối thần kinh. Cũng như vậy, những nghiên cứu bệnh lý học của chứng sa sút trí tuệ do thể Lewy cho thấy có sự chồng chéo giữa triệu chứng của bệnh này với bệnh Alzheimer và Parkinson. Đã có những cuộc tranh luận gay gắt trong thế kỷ qua về việc gọi tên chứng bệnh này như thế nào; một số thì cho ràng nên xếp vào nhóm bệnh Alzheimer, một số lại cho rằng nên xếp vào nhóm bệnh Parkinson. Mặc dù không hoàn toàn đi đến kết luận cuối cùng, nhưng nhìn chung các nhà khoa học đã để xuất tiêu chuẩn chẩn đoán và đồng ý gọi chứng bệnh này là “sa sút trí tuệ do thể Lewy”.
Bệnh học và điều trị của chứng bệnh này nhìn chung gần giống với bệnh Alzheimer và Parkinson. Tuy nhiên, bệnh sa sút trí tuệ do thể Lewy có một số điểm khác trong điều trị.
Biểu hiện chủ yếu: trí nhớ ngắn hạn bị ảnh hưởng, giảm thị lực và rối loạn ngôn ngữ (giống như bệnh Alzheimer), có một số triệu chứng giống các triệu chứng cơ bản của bệnh Parkinson như: run lúc nghỉ ngơi, vận động chậm chạp, cứng, vẻ mặt giảm tính biểu cảm, còng lưng và đi lết chân.
- Tiêu chuẩn chẩn đoán chứng sa sút trí tuệ do thể Lewy
Dựa vào đề xuất của các nhà khoa học thuộc “Các tổ chức nghiên cứu khoa học quốc tế”, có thể chia thành ba tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh sa sút trí tuệ do thể Lewy như sau:
- Xuất hiện ít nhất hai trong số các dấu hiệu quan trọng của rối loạn nhận thức.
- Xuất hiện ít nhất hai trong số ba đặc điểm cơ bản sau:
+ Sự tập trung thay đổi thất thường dai dẳng và đáng ngại.
+ Có dấu hiệu ảo giác.
+ Các động tác tự động ngoại tháp.
- Các đặc điểm có thể gợi ý cho chẩn đoán như:
+ Giảm khả năng nhắc lại.
+ Tụt huyết áp không rõ nguyên nhân hoặc có những chu kỳ mất ý thức ngắn.
+ Các dấu hiệu rối loạn tâm thần khác như: ảo tưởng, rối loạn giấc ngủ và nhạy cảm với thuốc an thần.
Những dấu hiệu cuối cùng có thể rất nặng như: các biểu hiện tâm thần nặng, một số trường hợp bệnh nặng khi sử dụng thuốc an thần xuất hiện các động tác tự động ngoại tháp. Đối với các thuốc an thần như: risperidone (Rispedal) và olanzapin (Zyprexa) có thể có tác dụng tốt hơn cho một số bệnh nhân sa sút trí tuệ do thể Lewy. Theo kinh nghiệm của Viện sức khỏe Quốc gia Mỹ, các triệu chứng rối loạn tâm thần, đặc biệt là dấu hiệu ảo giác có thể được cải thiện bằng tác nhân ngăn chặn cholinesterase như: tacrine (Cognex) và donepezil (Aricept). Đối với những bệnh nhân chủ yếu có các động tác tự động ngoại tháp, việc sử dụng các thuốc điều trị bệnh Parkinson với liều lượng vừa phải có thể cải thiện được nhưng lại có thể làm xấu thêm các triệu chứng rối loạn tâm thần.